Thứ Bảy, tháng 12 31, 2016

Người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng...

Vẩn vơ, thơ thẩn dịp cuối năm!

Được ông anh dẫn đi thăm một trung tâm đào tạo tiếng Nhật tại Hà Nội mở ra được hơn 2 năm. Nếu thời thượng bây giờ gọi là Start-up giáo dục Ed-tech. Cơ sở không quá khang trang nhưng thực sự ấn tượng về sự quan tâm của các founders đến lề lối sinh hoạt chỉnh chu và nền nếp, tập trung rèn cả ý thức sống. Người Việt sang Nhật du học sinh, kiến tập sinh hay XK lao động cần lắm không chỉ ngôn ngữ để giao tiếp mà trên cả là một ý thức và văn hoá sống cho phù hợp. Từ đấy mới có thể thực sự rèn luyện và phát triển được bản thân trong môi trường nước Nhật (cùng là đi XKLD với nhau để kiếm tiền thì được nhiều tiền hay ít tiền hoá ra bị chi phối lớn bởi ý thức sống này khi ở Nhật, mình thật).





Bất ngờ hơn là vào phòng giáo vụ, tuy còn đơn sơ nhưng có vài dòng chữ chép tay khiến mình có nhiều suy nghĩ:

+ Level 1: Người thầy trung bình chỉ biết nói...
+ Level 2: Người thầy giỏi biết giải thích
+ Level 3: Người thầy xuất chúng biết minh hoạ
+ Level 4: Người thầy vĩ đại biết cách truyền cảm hứng.



Cuối năm nhìn lại công ty 3S với trăm bạn trẻ, háo hứng làm việc, học tập, rèn luyện và kiếm tìm kinh nghiệm lẫn tiền bạc mà vẫn thấy ngỡ ngàng, bấp bênh thế nào ấy. Một mong muốn dang dở của mình cả năm qua là xây dựng văn hoá công ty Learning Company, bất kể vị trí nào, top managers hay cuders cũng luôn luôn thấy đang OJT, luôn luôn cần học tập liên tục, thậm chí tôn thờ life-long learning như một thứ đạo giáo.
Ấy nhưng, có lẽ đang quá nhiều người, đặc biệt ở những vị trí quan trọng tại công ty chỉ biết nói...
Doanh số tăng, tiền tăng nhưng kiến thức không tăng, người đông lên, vật chất nhiều lên nhưng cảm giác công ty có tý nghèo đi thế nào ấy.

Tâm sự vài dòng cuối năm 2016. Sang năm mới 2017, chúc toàn bộ anh chị em 3S chúng ta, ai ai cũng trở thành học trò chăm chỉ, ai ai cũng nỗ lực phấn đấu thành người thầy giỏi, từ level 2 trở lên nhé.

18.00, 31/12/2016

Thứ Năm, tháng 12 22, 2016

Xoay quanh chuyện phần mềm ở Nhật (dịch thuật từ NikkeiBP ITPro)

Theme: “Software the matters” by IT Pro



Chia sẻ của giáo sư Robert E. Cole, đại học California, Berkeley

Nhật Bản dường như có một ngành công nghiệp phần mềm sôi động; Tính về doanh số ngành công nghiệp phần mềm, Nhật cạnh tranh với Đức cho vị trí số 2 trên toàn cầu chỉ sau Hoa Kỳ. Công ty Nhật Bản cũng chứng minh có năng lực quy trình vững vàng trong phát triển phần mềm. Nhưng trên thực tế thì cái gì thực sự có ý nghĩa, nếu xét về điều kiện phù hợp cho những đột phát về phần mềm đỉnh cao, hướng tới tạo dựng được các sản phẩm và dịch vụ cạnh tranh cấp độ toàn cầu?

Lãnh đạo doanh nghiệp Nhật Bản đã quá chậm chạp nhận ra bản chất sự chuyển dịch sang hướng phần mềm (“chuyển dịch mềm”). Sự thành công của sản xuất Nhật Bản trong quá khứ kết hợp với một hệ tư tưởng làm “thủ công” monozukuri đã hạ thấp vai trò của phần mềm, chỉ dừng ở mức nhận biết nhu cầu phần mềm như là một trình điều khiển phần cứng để có được các chức năng mới, tạo giá trị gia tăng và sự khác biệt mà thôi.

Chắc chắn một điều rằng, ngay cả các thị trường tài chính Mỹ cũng mất một thời gian dài để nhận ra tiềm năng của ngành công nghiệp phần mềm. Marc Andreessen, người sáng lập của Netscape và cũng là nhà đầu tư mạo hiểm rất thành công, từng nêu bật bản chất sự “chuyển dịch mềm” của ngành công nghiệp này trong một bài viết được chia sẻ rộng rãi trong một số báo trên Wall Street ngày 20/08/2011. Ông đăt tiêu đề bài viết, "Tại sao phần mềm đang ăn cả thế giới."

Ông chỉ ra rằng ngày càng có nhiều doanh nghiệp và các ngành công nghiệp dựa trên phần mềm nhằm cung cấp dịch vụ trực tuyến như phim ảnh, thậm chí cả nông sản hay trang thiết bị quốc phòng. Động lực cho chuyển dịch này là sự ra đời của các doanh nghiệp điển hình kiểu thung lũng Silicon Valley, ngày càng lan rộng, đảo lộn toàn bộ cơ cấu các ngành công nghiệp truyền thống.

Amazon, kẻ được coi là đại diện cấp tiến của dịch chuyển này, tạo cốt lõi phần mềm cho mình với mục tiêu duy nhất là thể bán được hầu như tất cả mọi thứ trên mạng. Tương tự như vậy, điện thoại di động và nhiếp ảnh cũng đã chuyển biến dần thành ngành công nghiệp phần mềm. Hầu hết các ngành công nghiệp "nguyên thủy" như làm đồ nội thất sản xuất ngày càng phụ thuộc vào phần mềm để đánh giá xu hướng của người tiêu dùng, thiết kế, xây dựng và cung cấp sản phẩm của mình một cách kịp thời. Logistics và phân phối đang ngày càng trở thành một ngành công nghiệp bị chi phối bởi phần mềm và không cần phải nói gì cũng hiểu, ngành công nghiệp ô tô cũng đang nhanh chóng dịch chuyển theo hướng này. Google hiện đang thống trị ngành công nghiệp tiếp thị bán lẻ ở Hoa Kỳ. Không thể tưởng tượng được các ngành công nghiệp dịch vụ tài chính hiện nay mà thiếu vắng sự chi phối của phần mềm sẽ thế nào.

Không có ngành công nghiệp truyền thống nào miễn dịch được với xu thế phát triển trên! Mô hình kinh doanh hình thành trước đây dần bị xóa sổ vì chúng thường không điều chỉnh kịp với các tay chơi mới gia nhập thị trường. Các hãng hàng không hiện giờ có lẽ chỉ phân biệt mình với các đối thủ bởi những tính năng phần mềm của họ, thứ đã giúp tạo nên độ biến thiên của giá vé cực lớn cũng như khả năng để tối ưu hóa các tuyến đường hay tăng được hiệu suất chuyên chở.

Tại Hoa Kỳ, những xu thế phát triển ấy bao trùm mọi thảo luận kinh doanh. Chuyên gia phần mềm được tiến cử vào vị trí nắm quyền lực và có ảnh hưởng lớn. Tháng Tám năm 2016, GE đưa hai giám đốc điều hành CNTT hàng đầu lên nắm quyền lực cao nhất công ty. CIO ngày nay được quyền tiếp cận tới vị trí điều hành cao cấp để có thể tập trung vào việc sáng tạo ra các sản phẩm, dịch vụ và các mô hình kinh doanh mới, không chỉ còn đơn thuần là để giảm chi phí như trong quá khứ. Những công ty phần mềm thành công được ca ngợi là nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa. Điều này thu hút các sinh viên đại học tốt nhất và sáng nhất cho sự nghiệp CNTT. Vậy mà xu thế phổ biến ở Hoa Kỳ này lại chưa hiện diện tại Nhật Bản.

Mỹ có thuận lợi lớn, Andreessen lập luận, do vốn có sẵn các cở sở nghiên cứu lớn trong trường đại học, gắn bên trên một văn hóa kinh doanh chấp nhận rủi ro, cộng thêm một lượng lớn tài chính dành cho đổi mới được đi kèm với các hệ thống luật pháp tin cậy về hợp đồng và kinh doanh. Khi Andreessen viết bài báo của mình, luận điểm trên còn có đôi người cho là chưa đáng tin cậy; còn giờ đây, chỉ mới khoảng 5 năm sau, nó được công nhận rộng rãi không khác lời sấm truyền.

Trong các công ty Nhật Bản, các chuyên gia phần mềm cao cấp nhất thường ghánh trọng trách mảng việc gia công phần mềm. Các quyết định liên quan đến chiến lược và mua sắm phần mềm thường được giao cho các công ty chuyên kinh doanh CNTT, vốn đã tồn tại từ thập niên 90 để giảm chi phí. Những quyết định đẩy công việc phần mềm ra ngoài do chủ yếu không nhận ra phần mềm đang trở thành cốt lõi kinh doanh của công ty. Điều này hàm ý rằng các công ty mẹ sẽ chỉ duy trì mức năng lực phần mềm tự thân mình thật khiêm tốn nhất, vùa đủ khả năng đánh giá mua sắm phần mềm nào theo hướng lợi ích nhất cho công ty mẹ mà thôi.

Trong bảng xếp hạng toàn cầu các khoa CNTT ở các trường đại học Nhật Bản, thậm chí không nằm tốp trên cùng của bảng xếp hạng nhóm các quốc gia châu Á. Ngay cả trong các ngành công nghiệp ô tô, nơi mà Nhật Bản có vị trí cạnh tranh tương đối trên toàn cầu, thì vai trò ngày càng tăng của phần mềm lại chỉ đưa các công ty lớn của Nhật như Toyota đến hợp tác với các trường đại học danh tiếng của Mỹ như, MIT, Stanford và Đại học Michigan, nhằm tiếp cận các nền tảng IT mới hay trí tuệ nhân tạo. Cuối cùng, không giống như Hàn Quốc, CEO Nhật Bản còn quá kiệm lời mà không đề cập đến tầm quan trọng của phần mềm tới sự sống còn trong tương lai ở các công ty họ điều hành.

Liệu đội ngũ làm CNTT Nhật đang được triển khai theo cách thức có thể góp phần vào sự chuyển dịch mềm hay không? Cơ quan xúc tiến Công nghệ thông tin (IPA), một công ty con của METI, đưa ra báo cáo rằng khoảng 75% nhân viên kỹ thuật CNTT của Nhật Bản là quân số của các công ty dịch vụ chuyên ngành CNTT ( các công ty tích hợp hệ thống lớn và các công ty thầu phụ, thường được nhắc tới như các nhà máy phần mềm). Tại hầu hết các công ty này, số lượng cơ hội cho việc tạo ra các sản phẩm phần mềm sáng tạo để cung cấp dịch vụ cho quảng đại quần chúng thì còn quá hạn chế.

IPA cũng chỉ ra rằng, việc điều phối các nhân viên kỹ thuật CNTT của Nhật gần như đảo ngược với Mỹ. Ở Mỹ, 29% nhân lực kỹ thuật CNTT nằm tại các công ty dịch vụ chuyên ngành IT, phần còn lại 71% thì nằm ngay trong các công ty kinh doanh, gồm cả các công ty khởi nghiệp. Điều đó có nghĩa là nhân lực phần mềm ở Mỹ được đặt vào vị trí thuận lời để tạo dựng nhiều phát kiến trong phần mềm.

Đúng là Nhật Bản đang đứng thứ 2 hay thứ 3 trên toàn cầu về quy mô ngành công nghiệp phần mềm và có hạ tầng CNTT cộng với năng lực quy trình tốt là điều không còn gì phải bàn cãi nữa. Tuy nhiên, chúng ta phải tự hỏi, điều này liệu có ý nghĩa cho việc sự chuyển dịch mềm và tác động tới lợi thế cạnh tranh toàn cầu về sản phẩm và dịch vụ hay không?

Các điều tra chọn lọc từ các bảng xếp hạng quốc gia công bố bởi Diễn đàn kinh tế thế giới trong Báo cáo CNTT toàn cầu năm 2015 tiết lộ rằng Nhật Bản đứng thứ 25 về vốn; thứ 20 về tầm quan trọng của CNTT trong định hướng của Chính Phủ; thứ 27 về mức độ thành công của chính phủ trong việc thúc đẩy CNTT; thứ 14 về tác động của CNTT tới các dịch vụ và sản phẩm mới; thứ 39 về tác động của CNTT lên mô hình tổ chức mới; thứ 63 về việc tỷ lện % nhân lực có kiến thức chuyên ngành; thứ 24 về tác động của CNTT tới việc tiếp cận các dịch vụ cơ bản; và cuối cùng là thứ 25 về việc hiệu quả sử dụng và quản trị CNTT.

Tóm lại, chúng ta thấy rằng Nhật Bản là một nền kinh tế hàm chứa một tiềm năng rất lớn cho sự đổi mới phần mềm, nhưng thiếu chút xíu về cách thực hiện và tối ưu hóa tiềm năng đó để tạo ra sự chuyển dịch mềm nhắm tới sản phẩm và dịch vụ có tính cạnh tranh cao hơn trên quy mô toàn cầu.

Ghi chú ngắn của tôi lần này chủ yếu về lý do tại sao Nhật Bản đã không thể có được kết quả từ những gì nó có. Tôi sẽ tiếp tục tiết lộ những gì tôi nghĩ. Những gì tôi mong đợi là sẽ có nhiều thảo luận hơn về vấn đề này bởi chính các bạn Nhật Bản. Xin vui lòng gửi những suy nghĩ của bạn để đội biên tập ITPro tại Nikkei BP.

Chủ Nhật, tháng 12 18, 2016

Suy ngẫm TRƯỜNG CHUYÊN LỚP CHỌN (chuyện lớp CHIP)

Cuối tuần rảnh rỗi sinh nông nổi, mình xin chia sẻ lại quan điểm trong thảo luận ở 1 closed group mình tham gia để các bạn cho ý kiến thêm. Câu hỏi mình đặt ra là:

+ Trẻ học chuyên có nghĩa là được làm trước tuổi các bài tập, kiểm tra khó hơn, vốn dành cho các lớp lớn hơn nhưng với khung chấm điểm kỳ vọng thấp hơn? 
(Nghe nói bộ GD ta chỉ đạo theo mô hình này. Bài làm nâng cao thực chất là bài bình thường dành cho lớp 8, lớp 9 hay lớn hơn nhưng các con đang ở lớp 6 làm và được điểm 5 hay 6 cũng đã là tốt rồi ấy)

=========
Cám ơn Ban phụ huynh lớp cho tôi cơ hội đi nghe trao đổi về việc học tiếng Anh cơ bản trên lớp của các con. Thực sự lớp 6A1 nhà mình rất may mắn vì các bạn đều ngoan giỏi, lại được tất cả bố mẹ nói chung và đặc biệt ban phụ huynh nói riêng rất tích cực, quan tâm sâu sát đến việc học trên lớp của các con.
Hồi tháng 6 vừa rồi, mình có tham gia hội thảo của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD do bộ ngoại giao Việt Nam phối hợp tổ chức về chủ điểm công nghiệp 4.0. Trong đó có đề cập đến khung giáo dục thích ứng đến năm 2030. Xin phép được chia sẻ lại. Dưới đây là một sơ đồ mình tóm lược từ đó ra.
Việc này, nghe hơi vĩ mô nhưng nhiều lúc ngẫm nghĩ thì thực ra có thể là cơ sở định hướng các nội dung trao đổi nhằm hỗ trợ thầy cô và nhà trường cùng hợp tác, suy nghĩ về đổi mới cách tiếp cận và truyền đạt kiến thức cho các con qua những hoạt động, bài tập cụ thể.
Với tiếng Anh trong lớp chuyên như 6A1 nhà mình cũng vậy, Anh ngữ trước tiên nên là phương tiện để biểu đạt cách tiếp cận nội dung hay sáng tạo nội dung. Ví như, trình bày quan điểm cá nhân về sự kiện mang tính thời sự qua diễn đạt nói, viết. Tóm tắt nội dung một đoạn phim, hay chắt lọc những cấu trúc câu các con thực sự thích thú, có ấn tượng từ ngữ cảnh ở một bài hội thoại, một mẩu video, v.v... là một trong những cách để giúp bọn nhóc tư duy ngôn ngữ đi đôi với nội dung logic nhẹ nhàng. Như thế sẽ không còn quá bó buộc vào khung cứng giáo dục của cách tiếp cận giảng dạy trong giờ nâng cao hiện nay (bài làm nâng cao thực chất là bài bình thường dành cho lớp 8, lớp 9 hay lớn hơn nhưng các con đang ở lớp 6 làm và được điểm 5 hay 6 cũng đã là tốt rồi ấy).

Tất nhiên có nhiều quan điểm giáo dục, tôi cũng chỉ xin chia sẻ một góc nhìn cá nhân để các bố mẹ tham khảo.
=========


OECD gợi ý tập skillsets cần thiết cho dạy trẻ con đến năm 2030(?) nhưng hoá ra nhiều công ty start-up toàn trẻ con đấy nhỉ?
Cognitive còn chả hiểu gì rồi giờ lại còn meta-cognitive là cái gì vậy ta

Thứ Bảy, tháng 12 10, 2016

Mỳ cá kho (Nishinsoba - にしんそば)

Nghĩ lại lần đầu tiên mình thưởng thức món mỳ Soba cá kho của Nhật có khi tầm 8 năm trước, 2008, tại Himeji.

Mỳ nước mà cho nguyên con cá bằng bàn tay thì thoạt nhìn ai cũng thấy lạ và có thể rất khó ăn. Sự thật thì cũng không có nhiều người Nhật hay Việt thích món này. Còn mình, từ sau miếng cắn đầu tiên đó, nó trở thành một day dứt mỗi khi đến Nhật, hệt như cơm lươn (unadon) vậy. 
Cá kho hơi mằn mặn pha lẫn ngọt ngào, săn chắc rắn rỏi, tởi dần vị biển vào nước dùng nóng ấm của Soba, thêm chút hành hoa, ớt bột bảy vị shichimi thì đã chỉ muốn sà ngay vào rồi đi đâu thì đi. Lúc nào nghĩ đến thôi cũng giá mà...

Nước Nhật là quốc đảo nổi tiếng toàn thế giới về các món cá nhưng cũng là nơi phát kiến số một về mỳ sợi. No doubt. Sự kết hợp mỳ và cá biển sớm thành một trong những điều tất-lẽ-dĩ-ngẫu.
Mỗi lần đi công tác hay quay lại Nhật đi chơi, tôi đều cố gắng tìm quán có mỳ cá kho gần đó để thưởng thức. Lâu dần, các bạn Nhật cũng quen, nếu có rủ đi ăn trưa thì cũng hay để ý osusume tôi quán Nishin Soba quanh khu vực.

Cố đô Kyoto, thành phố tôi yêu và gắn bó, vốn là thung lũng lòng chảo trong núi, khá xa biển để mà xưa kia có thể có được cá để ăn. Vì thế, cá Nishin (herring fish) cần kho mặn bảo quản đáp ứng điều kiện vận chuyển xa và ăn dần.

Lần này, tôi quyết tâm dành ngày cuối tuần Kyoto, tìm tới bằng được nguồn cội của món mỳ cá kho trứ danh này. WoW. I did it. Quán tộc trưởng mỳ cá kho Matsuba, chi trưởng của mọi chi, có từ năm 1861. Đến giờ là 155 năm sau, quán vẫn thế, truyền thống và lành nghề với các bà cô phục vụ món, hỏi ra mới biết đã có thâm niên đến 30-40 năm liên tục làm ở đây rồi.
Thật không ngờ, giữa góc ngã tư Shijo sầm uất, náo nhiệt khách du lịch suốt đêm ngày lại có một món cổ truyển đến vậy.

Giá một bát mì cá kho ở đây khá cao, tầm 1400 yên đến 1500 yên (~300K VND). Cõ lẽ vì miếng cá, săn chắc, dầy dặn và hương vị không thể trộn lẫn vào bất cứ quán nào khác. Thông thường, mọi người để ý chút thì cũng có thể kiếm được món này với tầm 1000 yên ở các khu ăn uống lớn.

良かった! Nhiều khi mình cứ vui lâng lâng với nước Nhật qua mấy thứ vặt vãnh kiểu vậy ấy.

Quán mỳ sau lưng tôi, ở góc ngã tư Shijo náo nhiệt

Phù điêu trang trí đơn giản về quá trình làm mỳ Soba

Lunch set 1500 Yen, gồm thêm bát cơm ruốc cá hồi cho đủ no

Quán chi trưởng Matsuba, 1861, 155 năm nay làm món này roài.

Thứ Tư, tháng 12 07, 2016

Ogimachi Koen

Rảnh nhậu tý bị thơ thẩn nơi đất xưa. Có phải đi Mỹ lẩy Khoa nhiều bị lây không nhỉ?

Ogimachi Koen


Nhiều năm qua mới có dịp quay lại
Ogimachi, tuổi ấu thơ hai con xưa gắn bó.
Cây cầu đỏ dáng em con lũn chũn.
Ống trượt 5 tầng vàng, cha cùng con rượt đuổi
Lòng dũng cảm khi ấy, xây bởi bậc thang cao.

Đâu đó góc công viên này
Tiếng con cười, reo vui hòa tiếng lá
Nhớ đêm Trung Thu nằm đồi, mùi cỏ lạ
Cả nhà ta mộng ước, trăng không già.

À kia rồi, lang thang chiếc xẻng nhựa,
Xe cát đã đầy, em Ủn chở đến đâu?
Đất nặn, thừng treo, kính vạn hoa, máy bay giấy
Bóng con vươn dài theo trái tròn lăn.

Gió lạnh chớm đông, lá vàng xốn xang lối nhỏ
Khoé mắt cha cay cay, tại gió hay trở lòng?
Con lớn lên, nhiều ngả đường vững bước
Nhưng nơi công viên này, quẩn quanh vòi nước nhỏ
Vẫn đó, thầm thì giọt yêu tuổi thơ con.


(Ogimachi Park 12/2016)

Cầu trượt đỏ, cầu trượt vàng

Cầu trượt vàng cao ngang 5 tầng nhà (so với tòa nhà bên cạnh)

Môn trèo tường (các con bé quá, thường chơi loay hoay dưới chân tường thôi)

Vòi nước nhỏ, rửa tay chân và cả uống nữa.